Đối với các bạn Sinh viên Khoa Dược, việc học thuộc, đọc đúng, nhớ tên và viết đúng danh pháp các loại tên thuốc cần phải rèn luyện thành kỹ năng. Đối với SV Dược HMC, các bạn được học tên hoạt chất trong môn Dược lý ở năm thứ nhất, học thêm về các tên thương mại thông dụng trong môn Thực hành bán thuốc1. Hiện nay SV K22 đang học tên thuốc và kỹ năng thông tin sản phẩm trong môn Thực hành bán thuốc.
Trong thực tế, việc kê tên thuốc trong điều trị có nhiều điểm cần phải chấn chỉnh. Đặc biệt, các thầy thuốc thường kê tên thuốc theo tên thương mại hay tên biệt dược. Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy và có thể gây nhầm lẫn hoặc sai bản chất của thuốc.
Theo quy định của Bộ Y tế, thầy thuốc phải kê thuốc vào mẫu đơn, mẫu sổ bệnh án quy định kèm theo quy chế, đồng thời phải ghi đủ các mục in trong đơn; chữ viết phải rõ ràng, dễ đọc, chính xác; Riêng quy định viết tên thuốc phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc viết tên thuốc theo tên chung quốc tế (INN, generic name) hoặc nếu ghi tên biệt dược phải ghi tên chung quốc tế trong ngoặc đơn (trừ trường hợp thuốc có nhiều hoạt chất); ghi tên thuốc, hàm lượng, số lượng, liều dùng, cách dùng của mỗi thuốc; số lượng thuốc gây nghiện phải viết bằng chữ, chữ đầu viết hoa; số lượng thuốc hướng tâm thần và tiền chất dùng làm thuốc viết thêm số 0 phía trước nếu số lượng chỉ có một chữ số; nếu có sửa chữa đơn phải ký, ghi rõ họ tên, ngày bên cạnh; gạch chéo phần đơn còn giấy trắng. Ký, ghi (hoặc đóng dấu) họ tên người kê đơn.
Mâu thuẫn kê tên thuốc chung, tên biệt dược
Rất nhiều bác sĩ vẫn thường kê tên thuốc theo tên biệt dược hay tên thương mại. Tình trạng này khá phổ biến trong các bệnh viện hay phòng khám hiện nay. Về cách viết tên biệt dược hay tên gốc của thuốc một số nơi vẫn chưa thống nhất mặc dù đã có quy định cụ thể của Bộ Y tế. Tuy nhiên, việc thực chi của bảo hiểm xã hội cho các bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế cần phải ghi rõ tên thuốc đã dùng để tiện cho việc tính tiền. Chẳng hạn, nếu người bệnh dùng thuốc cefotaxim tiêm (một loại kháng sinh nhóm Cephalosporin) nếu không ghi rõ loại nào của hãng nào thì giá của sản phẩm cụ có thể dao động trong khoảng vài chục nghìn đồng/lọ. Một số tên thuốc còn bị gắn tên Hãng sản xuất vào như một thương hiệu bắt buộc, ví dụ như alpha choay hay Ciprobay…
Sự phức tạp của tên thuốc nhiều khi làm cả những người trong giới y tế cũng không biết rõ đâu là tên thuốc gốc, đâu là tên thương mại. Thường tên gốc thuốc là tên hóa học còn gọi là DCI (Denomination Commune Internationale) khác với từ “generic” dùng để chỉ thuốc sản xuất theo một tên biệt dược nào đó đã hết quyền bảo vệ. Tất nhiên các hãng sản xuất thuốc muốn sản xuất phải theo tiêu chuẩn quy định. Một số labo lấy tên gốc làm tên thuốc generic. Thí dụ : thuốc Parlodel (tên DCI=Bromocriptine) có generic tên là Bromo-Kin; thuốc Mopral (tên DCI=Omeprazole) có generic Omeprazole.
Tên thuốc gốc DCI, tên biệt dược, tên generic là 3 dạng tên cùng một thứ thuốc với giá bán rất khác nhau. Tên thuốc gốc là tên khoa học hóa chất nên được dùng chung trên toàn thế giới.
Biệt dược (còn gọi là reference dug, trade name) là thuốc do các labo khám phá, bào chế tự đặt lấy tên. Thuốc này không được copy trong một thời gian nhất định (thường là 20 năm từ ngày hóa chất được tìm thấy). Ai muốn copy phải xin phép công ty đã phát minh ra thuốc đó và phải trả tiền bản quyền.
Tên generic là tên những hóa chất đã thoát bản quyền. Ai muốn copy thì copy nếu có đủ tiêu chuẩn sản xuất không phải trả tiền bản quyền, thành thử rẻ hơn 15 – 30% giá thuốc biệt dược. Thông thường nếu kê đơn bằng DCI thì dược sĩ nhà thuốc có quyền bán biệt dược hoặc generic vì cùng một hóa chất. Trong việc dùng thuốc, yếu tố an toàn, hợp lý, hiệu quả và kinh tế được đề cập đến. Tuy nhiên, yếu tố kinh tế, tức là việc tiêu tốn tiền để mua thuốc phụ thuộc rất nhiều vào việc ai phải trả tiền. Các thầy thuốc thường thích kê tên biệt dược để bệnh nhân được dùng loại thuốc có uy tín của các hãng dược phẩm có tên tuổi. Đồng thời các thuốc này cũng thường có giá cao hơn thuốc mang tên gốc.
Vì lý do kinh tế, các nhà thuốc cũng thường hay muốn bán các thuốc biệt dược để thu lợi nhuận cao hơn. Để tránh mất bản quyền các hãng dược có thể biến đổi, thêm bớt một vài phân tử trong hóa chất nhưng vẫn giữ nguyên tác dụng thuốc thành ra thuốc mới không làm generic được. Thí dụ: tên thuốc DCI = omeprazole (một loại thuốc chữa viêm loét dạ dày tá tràng) có 2 biệt dược là Mopral và Zoltum, trong đó thuốc sau là copy có trả tiền bản quyền. Omeprazole Merck, Omeprazole Sandoz, Omeprazole Arrow… là generic. Nhưng thuốc Nexium DCI là esomeprazole, không có generic vì còn bản quyền, giá cao không thể thay thế được… Lẽ đương nhiên là các thuốc này đều có cùng một tác dụng nhưng giá bán khác nhau.
Sự khác nhau của thuốc chính hãng và thuốc generic là ở các công trình nghiên cứu khoa học của chúng. Thuốc mang tên generic là hàng copy nên các hãng sản xuất sau thường đưa ra thông tin chung chung là sẽ giống với thuốc chính hãng, nhưng việc làm các thử nghiệm tương đương sinh học khá tốn kém nên chưa hẳn đó là những thông tin đáng tin cậy.
Cần cân nhắc khi kê tên thuốc
Thật ra, tại các nước phát triển, thuốc biệt dược giá bán rất đắt, và lợi nhuận từ việc kinh doanh các tên thuốc độc quyền đã mang lại những nguồn lợi lớn cho các hãng dược phẩm. Với các tên thuốc generic mà đã quá 20 năm thì không gì phải lo về việc thu hồi vốn. Nhưng không phải ai cũng có điều kiện để sản xuất thuốc generic theo đúng tiêu chuẩn, vì vậy chỉ có các hãng dược phẩm lớn hoặc chi nhánh ủy quyền mới bào chế generic mà thôi. Ở các nước đã triển khai bảo hiểm xã hội toàn dân, nghèo thì Chính phủ đóng bảo hiểm xã hội cho nên chính quyền khuyến khích việc dùng generic để ngân sách y tế xã hội sẽ không bị tăng quá lớn
Tại các bệnh viện và phòng khám, cần tuyên truyền mạnh mẽ để thầy thuốc cân nhắc khi kê tên thuốc cho người bệnh. Tùy theo những trường hợp cụ thể cần thiết có cách xử lý khác nhau. Nếu một bệnh nhân tự bỏ tiền túi ra để điều trị bệnh của họ, người bệnh có quyền yêu cầu dùng những thuốc biệt dược đắt tiền tùy theo khả năng kinh tế. Đối với các bệnh nhân đang hưởng lợi từ nguồn bảo hiểm xã hội, cần phải cân nhắc để dùng thuốc theo tên gốc có hiệu quả điều trị tốt mà không gây thâm thũng quỹ bảo hiểm xã hội của cộng đồng. Bởi vì nếu ai cũng đòi hỏi phải dùng thuốc thật đắt tiền thì không một quỹ bảo hiểm xã hội nào có thể chi trả nổi mà không lo lắng đến việc bội chi tiền thuốc cho người có chế độ BHYT./.
ThS Lê Quốc Thịnh – Giảng viên Khoa Dược